Vấn đề nhân thân và tài sản khi ly hôn mà không đăng ký kết hôn
Ngày nay, các mối quan hệ ngày càng được mở rộng, các quan niệm xã hội cũng thoáng hơn vì vậy mà xuất hiện hiện tượng nam – nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn khá phổ biến. Vấn đề phát sinh đó là việc xác định quyền và nghĩa vụ nhân thân và tài sản như thế nào cho thỏa đáng và đúng theo luật định khi hai bên nam – nữ mong muốn chấm dứt việc sống chung.
I. Tìm hiểu chung về vấn đề nam - nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn
1. Khái niệm kết hôn
Hôn nhân là cơ sở hình thành gia đình - tế bào của xã hội. “Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn”[1]. Để củng cố chế độ hôn nhân và đề ra những biện pháp nhằm làm ổn định quan hệ này, Nhà nước ta đã quy định tại Điều 64 Hiến pháp năm 1992: “Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình...” Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng quy định rõ: “Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn”[2]. Có thể hiểu một cách đơn giản, hôn nhân là hai người nam – nữ đủ điều kiện theo quy định của pháp luật lấy nhau và có đăng kí kết hôn. Các điều kiện kết hôn hợp pháp được quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình: Trước hết về độ tuổi kết hôn, nam là từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 trở lên. Bên cạnh đó, việc kết hôn do nam - nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai có quyền cưỡng ép hoặc cản trở. Cuối cùng là việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định tại Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình. Việc đăng kí kết hôn là nghi thức duy nhất làm phát sinh quan hệ hôn nhân. Chỉ khi đăng kí kết hôn ở cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thì hôn nhân ấy mới được công nhận.
2. Vấn đề nam - nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn
Vấn đề nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn diễn ra rất phức tạp. Về nguyên tắc, không đăng kí kết hôn thì không được coi là hôn nhân nhưng thực tế có những trường hợp không đăng kí kết hôn vẫn được thừa nhận là hôn nhân hợp pháp, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản giữa hai bên. Cụ thể là tại Điều 3 Nghị quyết số 35/2000/QH của Quốc hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình quy định:
3.Việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này được thực hiện như sau:
"a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;
b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng;
c) Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Toà án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.”
Theo quy định tại Điều 2 Nghị định 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH của Quốc hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình thì:
“Những trường hợp quan hệ vợ chồng xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, mà chưa đăng ký kết hôn, thì được Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận tiện cho đăng ký kết hôn. Việc đăng ký kết hôn đối với những trường hợp này không bị hạn chế về thời gian. Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn. Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn, thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng”.
Như vậy, đối với các trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987, hai bên dù không đăng kí kết hôn vẫn được pháp luật công nhận là vợ chồng, gọi là chung sống như vợ chồng có giá trị pháp lí. Trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, hai bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng không đăng kí kết hôn, không vi phạm điều kiện kết hôn nhưng không thuộc trường hợp pháp luật thừa nhận, gọi là chung sống với nhau như vợ chồng không có giá trị pháp lí. Từ ngày 01/01/2001, hai bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng, không đăng kí kết hôn và vi phạm điều kiện kết hôn gọi là chung sống trái pháp luật.
II. Xác định quyền và nghĩa vụ nhân thân và tài sản của các bên nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn khi họ mong muốn chấm dứt việc sống chung
Khi nam nữ sống chung như vợ chồng muốn chấm dứt việc chung sống này thì giải quyết quyền về nhân thân và tài sản phụ thuộc vào thời điểm hai bên muốn chấm dứt sống chung như vợ chồng.
Với những trường hợp muốn chấm dứt trước ngày 01/01/2001 thì quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản xảy ra theo hai hướng: Nếu là xử sơ thẩm thì sẽ xác định quyền nhân thân và tài sản theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; nếu trước đó hai người đã được Tòa án xử sơ thẩm theo Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 thì khi xử phúc thẩm sẽ xử theo Luật năm 1986.
- See more at: http://www.luatgiadinh.com/bai-viet/van-de-nhan-va-tai-san-khi-ly-hon-ma-khong-dang-ky-ket-hon.html#sthash.U300bS0q.dpuf
0 nhận xét:
Đăng nhận xét